Sau khi Poutine sát nhập Crimée vào Nga, tình hình Ukraine vẫn còn nóng
bỏng, nhiều cuộc vận động chính trị, ngoại giao, nhiều lời tuyên bố,
tất nhiên nhiều bài bình luận, và nhiều dự đoán tiên liệu là Poutine có
ngừng tại đây hay tiếp tục thừa cơ lấn chiềm cả vùng lãnh thổ phía đông
Ukraine.
Từ khi bà cựu Ngọai trưởng Hoa Kỳ, Hilary Clinton, trong một buổi họp
mặt gây quỹ tại Californie đã so sánh hành động của ông Poutine với hành
động của Hitler. Từ đó, khiến người ta liên tưởng đến Đệ Nhị Thế Chiến
(1939 – 1945), tới Chiến tranh Lạnh (1945 – 1990), tới lời tuyên bố cũng
của một người cựu Ngoại trưởng Hoa kỳ, ông Henry Kissinger trong thời
gian Chiến tranh Lạnh: “Hoa kỳ không có bạn mà chỉ có đồng minh”, tới
cuộc tranh hùng tư bản - cộng sản và xa hơn nữa, tới câu của một nhà tư
tưởng quân sự:
“Thượng sách là công tâm - trung sách công lương - hạ sách mới tới công
thành.” Công tâm đây là dùng chiến tranh tâm lý, chính trị, ngoại giao.
Công lương là chiến tranh kinh tế. Công thành là chiến tranh quân sự.
Xét quá khứ, qua 3 câu nói trên, chúng ta hãy suy ngẫm về chiến lược ngoại giao của Hoa kỳ hiện nay tại Ukraine.
Khác với thời Đệ Nhất (1914 – 1918) và Đệ Nhị thế Chiến (1939 – 1945),
Hoa kỳ luôn đợi cho cuộc chiến gần ngã ngũ, rồi mới nhảy vào, lần này
Hoa kỳ nhảy vào cuộc đối đầu với Nga ở Ukraine rất sớm, chẳng hạn như
hôm mồng 06/03, trong khi các nguyên thủ Âu châu đang họp ở Bruxelles,
thủ đô nước Bỉ, chưa có quyết định, thì Tổng thống Hoa Kỳ, trong một bài
diễn văn, đã đưa ra những biện pháp trừng phạt Nga về ngoại giao và
kinh tế.
Giống như thời gian Chiến tranh Lạnh, Hoa kỳ lần này ở Ukraine, cũng đặt
ưu tiên cho giải pháp ngoại giao và kinh tế. Ngay từ lúc đầu, qua chỉ
thị của tòa Bạch ốc, đối với những cơ quan cấp dưới, thì không có vụ bàn
về giải pháp quân sự, đó là chính thức được công bố, còn họ bàn kín thì
không rõ.
Nói đến giải pháp kinh tế, nhớ đến câu nói của Bà Hilary Clinton, ví
Poutine hiện nay với Hitler, làm người ta nhớ tới Staline và hội Nghị
Yalta, ở Crimée, thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Yalta nằm ngay phía đông của Crimée, nhìn ra Hắc hải (Mer Noire), là nơi
nghỉ hè của Nga hoàng khi xưa, sau đó được đảng Cộng sản Liên sô dùng
làm nơi nghỉ hè của cán bộ cao cấp.
Hội nghi Yalta họp từ ngày 4 đến 11 tháng hai năm 1945, gồm 3 nguyên thủ
của 3 đại cường quốc lúc bất giờ: Roosevelt của Mỹ, Churchill của Anh
và Staline của Liên sô, bàn về thế giới sau Đại Chiến, vì vào lúc đó Đức
quốc xã của Hitler bị đặt vào tình trạng chắc chắn sẽ thua.
Cũng xin nói sơ về hội nghị này, nó chứng tỏ rất rõ ràng chính sách công
tâm và công lương của Hoa Kỳ, ngược lại chính sách công thành của
Staline suốt thời gian sau này trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Ba người đến hội nghị này với những dự tính khác nhau: Roosevelt đến hội
nghị với lý tưởng xây dựng một thế giới hòa bình trong tương lai, dựa
trên sự thành lập tổ chức Liên Hiệp quốc, với 5 quyền phủ quyết mà ông
cho rằng là 5 cột trụ chính trong Hội Đồng Bảo An của tổ chức này để duy
trì hòa bình. Đồng thời ông nghĩ đến việc xây dựng kinh tế và trao đổi
thương mại trong tương lai. Chính vì vậy mà ông đã tổ chức Hội nghị
Bretton Woods và một hiệp ước được ký kết bởi 44 quốc gia vào tháng 7
năm 1944, tại đây, sau khi ông chết vào ngày 12 tháng 4 trước đó, chết
đúng 2 tháng sau hội nghị Yalta.
Hội nghị Brettons Wood qui định về hệ thống tiền tệ quốc tế và sự trao
đổi mậu dịch với sự ra đời của Quĩ Tiền tệ quốc tế (FMI) và Tổ chức
Thương mại quốc tế (WTO).
Chúng ta cũng nhớ, trước đó là tất cả những tiền tệ thế giới đều dựa
trên kim bản vị, có nghĩa là được bảo đảm bằng vàng, nhất là đối với
những cường quốc. Nhưng Hoa kỳ biết rằng, sau Đệ Nhị Thế Chiến, các nước
Âu châu kinh tế bị kiệt quệ, số vàng trong ngân hàng quốc gia bị giảm
sút, mà nhu cầu trao đổi thương mại sẽ tăng, cần nhiều tiền tệ. Nếu giữ
kim bản vị, thì không có vàng để bảo đảm, chính vì vậy, Hoa kỳ, qua hội
nghị Bretton Wood, đã đưa ra nguyên tắc "Gold Exchange Standard", có
nghĩa là cho phép các nước Âu châu vừa lấy kim bản vị vừa lấy Dollar bản
vị. Nói một cách cụ thể dễ hiểu, lấy trường hợp cụ thể như Ngân hàng
Trung ương Đức, trong kho dự trữ có cả vàng lẫn Dollars, thì có thể phát
hành đồng Đức Mã dựa trên tương quan giữa vàng và Đức mã theo qui định
của chính phủ, và đồng thời cũng có thể phát hành đồng Đức Mã dựa trên
tương quan giữa Đô la và Đức Mã, chẳng hạn tương quan đó là 1 Dollar ăn 3
Đức Mã, thì nếu Đức có dự trữ 1 tỷ $ trong Ngân hàng trung ương, thì
Đức có thể phát hành 3 tỷ Đức Mã, cộng với phần Đức Mã phát hành dựa
trên vàng. Nhưng chúng ta nên nhớ một điều rằng Hoa kỳ lúc nào cũng nói
và giữ nguyên tắc là Đồng $ trị giá như vàng, nhất là đối với các ngân
hàng quốc gia trung ương, nếu lúc nào muốn đổi ra vàng thì Hoa kỳ sẵn
sàng đổi. Tuy nhiên số $ trên thị trường càng ngày càng nhiều, số vàng
của ngân hàng trung ương Hoa kỳ không thể cung ứng sự đổi ra vàng được.
Hiện tượng này cứ kéo dài mãi cho tới năm 1968, tổng thống Hoa Kỳ
Richard Nixon lấy quyết định qua một sắc luật là Dollar từ giờ phút này
không còn được đổi ra vàng nữa, vì $ không phải chỉ dựa trên kim bản vị,
mà dựa trên sức mạnh của kinh tế Hoa kỳ và lòng tin của mọi người. Đây
là một quyết định, theo một số nhà kinh tế, thì có tính cách tân đế quốc
và lợi dụng lòng tin của người khác.
Tân đế quốc ở chỗ Hoa Kỳ được coi như ông chủ sòng bạc, ông chủ sòng bạc
đã là đế quốc rồi, nhưng ông chủ này còn có thể in số lượng tiền ra bao
nhiêu cũng được để chơi, không có cái gì để bảo chứng, nên bao giờ cũng
thắng.
Lợi dụng lòng tin người khác ở chỗ là những ngân hàng trung ương của các
nước khác, ngay như hiện nay, lúc nào cũng dự trữ khoảng 70% Dollars,
so với những ngoại tệ khác, và người dân thường, các nhà buôn, lúc nào
đi du lịch hay buôn bán vẫn muốn cầm Dollar, vì dễ trao đổi. Kinh tế Hoa
kỳ phát triển liên tục, tất nhiên có một vài lần khủng hoảng, do nhiều
nguyên do, nhưng một trong những nguyên do chính là từ hệ thống tiền tệ
này.
Điều này nó còn cắt nghĩa sự kiện hai quốc gia và có thể nói ở bình diện
quốc tế, dự trữ số $ nhiều nhất hiện nay là 2 quốc gia Á châu, Trung
cộng vào khoảng gần 3 000 tỷ $ và Nhật hơn 2 000 tỷ $.
Đây là 2 quốc gia buôn bán và thặng dư nhiều nhất với Hoa Kỳ.
Lấy trường hợp Trung cộng: Trao đổi giữa Hoa kỳ và Trung cộng một năm là
vào khoảng gần 400 tỷ $, trong đó Trung cộng bán sang Hoa Kỳ vào khoảng
300 tỷ và mua của Hoa kỳ vào khoảng 100 tỷ, thặng dư có lợi cho Trung
cộng là khoảng gần 200 tỷ.
Câu hỏi đặt ra là tại sao như vậy?
Nền kinh tế Trung cộng trong những thập niên gần đây chủ yếu là để xuất
cảng, tuy nhiên với phần lớn các nước khác trên thế giới là thất thâu,
chỉ với Hoa kỳ là bội thâu, như vừa nói. Tuy nhiên để giúp đỡ những nhà
xuất cảng Trung cộng, thì nước này bắt buộc phải làm thế nào để giá trị
đồng $ trên thị trường quốc tế và nhất là quốc nội phải ở giá cao. Theo
trường phái Kinh tế Số lượng (Ecole quantitative), thì chúng ta lấy tổng
số tiền Nhân dân tệ là M1 (Nhân dân tệ) và M2 (Tổng số Dollar), trên
thị trường. Nếu chúng ta lấy M1 chia cho M2, thì sẽ ra giá trị của
Dollar so với Nhân dân tệ.
M1/M2 = Giá trị Dollar.
Giá trị này tăng hay giảm là tùy theo sự tăng giảm của M1 và M2.
Nếu M1 tăng mà M2 giữ nguyên hay M1 giữ nguyên mà M2 giảm, thì trị giá
Đollar tăng hay ngược lại. Chính vì vậy để cho $ tăng, nhằm giúp những
nhà xuất cảng của mình sang Mỷ, chính quyền trung ương Trung Cộng, gần
như lúc nào cũng phải bỏ tiền của mình ra mua Dollar; và cũng vì vậy mà
số dự trữ $ của Trung cộng rất lớn và lúc nào cũng tăng. Tuy nhiên Trung
cộng không dám tung $ ra thị trường thế giới, làm như vậy là tự giết
những nhà xuất cảng của mình đầu tiên. Cũng lợi dụng tình trạng đó, Hoa
Kỳ cứ in $ ra một cách không bảo chứng, để dùng tiền này làm nhiều việc
trong đó có việc làm tăng trưởng kinh tế, việc chạy đua vũ trang v..v…
Một điều đáng ngạc nhiên là người ta chỉ nghe những lời chỉ trích Trung
cộng là luôn đi theo một chính sách tiền tệ, kìm hãm đồng Nhân dân tệ rẻ
hơn so vơi đồng Dollar từ 10 đến 15 % trên thị trường để giúp đỡ chính
sách kinh tế nhằm vào xuất cảng, nhất là sang bên Hoa kỳ; nhưng người ta
lại không nghe những lời chỉ trích Hoa kỳ in Dollar ra mà không có vàng
bảo chứng, bảo rằng Dollar dựa trên nền kinh tế Hoa kỳ, nhưng nhiều khi
nền kinh tế này khó khăn lại chính là lúc chính phủ cho in tiền ra để
tiêu xài hay tìm cách hạ giá lãi xuất của Ngân hàng Trung Ương (taux
d’escompte), để vực dậy kinh tế.
Trở về hội nghị Yalta, chúng ta vừa nói đến ý định của Roosevelt, nay
xin nói đến Churchill và Staline. Churchill đến với hội nghị là để bảo
vệ đế quốc Anh, làm thế nào để nó không bị sụp đổ. Còn Staline đến với
hội nghị là trên nguyên tắc đồng ý với Roosevelt nhưng trên thực tế thì
làm thế nào để bành trướng đế quốc cộng sản, cho quân tràn sang những
nước Đông Âu, rồi xúi dục những đảng cộng sản bản xứ nổi lên cướp chính
quyền. Điều này không những Staline làm ở Đông Âu, mà còn ở Tàu, Việt
Nam và Hàn quốc.
Nguyên việc hội nghị Yalta được tổ chức tại vùng bờ biển Crimée, đối
diện ra biển Hắc Hải, do Staline tổ chức đã cho thấy ưu thế của Liên sô
lúc đó. Trong hội nghị, Staline đã nịnh bợ Roosevelt hết cỡ là mời ông
làm chủ tịch luôn tất cả những buổi họp; nhưng đây là một dụng ý thâm
độc của ông, vì làm như vậy ông loại được một địch thủ, nay chỉ còn mình
ông đối đầu với Churchill. Ngay cả việc xắp xếp chỗ ở của 3 phái đoàn,
ông chọn 3 cái biệt thự nằm xiên nhau theo hình 3 góc của 1 tam giác.
Như thế là có thể kiểm soát sự đi lại của 2 phái đoàn khác, dù sao ông
biết họ vẫn là bạn lâu đời.
Từ đó, sau hội nghị Yalta cho tới ít nhất vào giữa thời gian Chiến tranh
Lạnh, nhiều sử gia cho rằng kẻ chiến thắng lớn nhất trong hội nghị là
Staline. Tuy nhiên ngày hôm nay, sau chiến Tranh Lạnh, đế quốc Liên sô
sụp đổ, tất nhiên do rất nhiều lý do, nhưng trong đó có 2 lý do chính là
công tâm và công lương, người ta mới suy nghĩ lại, cho rằng kẻ chiến
thắng sau cùng chính là Hoa kỳ.
Nói đến hội nghị Yalata, đến Chiến tranh Lạnh, mà không nói đến hội nghị
Potsdam, thì quả là một điều thiếu sót, vì có người cho rằng chính tại
hội nghị này đã bắt đầu chiến tranh Lạnh, chứ không đợi đến bài diễn văn
của Churchill vào năm 1947, tại một đại học Hoa kỳ, cho rằng một bức
màn sắt đã kéo xuống để ngăn cách 2 thế giới tư bản và cộng sản.
Potsdam là một thị trấn nhỏ ở phía tây nam Berlin. Hội nghị kéo dài từ
ngày 17/7 tới ngày 2/8/ 1945, giữa Truman, Tổng thống Hoa Kỳ, Staline,
Tổng bí thư đảng Cộng sản Liên sô, và Churchill, Thủ tướng Anh, sau được
thay thế bởi Atlee, vì đảng của Churchill bị thất cử.
Trong hội nghị này, người Cố vấn của Hội đồng An ninh quốc gia Hoa kỳ,
ông Paul Nitzé, đã mang theo quyển truyện Trại Súc vật cuả nhà văn hào
Anh, Georges Orwells, và đã lấy ý từ quyển sách này để làm ra Chiến lược
Be Bờ (Politique d’Endiguement), sau đó được gói ghém trong một chỉ thị
được mang tên là Chỉ thị số 56 của Hội đồng An ninh quốc gia, mà những
nhà ngoại giao Hoa kỳ cho là kim chỉ nam trong suốt thời gian chiến
tranh Lạnh, cho tới khi bức tường Bá Linh sụp đổ, thì ông Paul Nitzé,
lúc đó đang làm Trưởng Phái đoàn trong Hội nghị Thương thuyết về vấn đề
Tài giảm binh bị tại Genève, Thụy sĩ, đã tuyên bố: “ Chúng ta đã chiến
thắng Chiến tranh Lạnh.” (1)
Người khác đưa ra lý do thứ nhì: Đó là trong hội nghị Potsdam này, Truman đã thông báo cho Staline việc Hoa kỳ có bom nguyên tử.
Rồi sau đó 2 trái bom nguyên tử được thả xuống Hiroshima ngày 6/8 và
ngày 9/8/1945 xuống Nagashaki. Có người người cắt nghĩa nguyên do của 2
trái bom này với 3 giả thuyết:
1) Để trả thù Nhật đã tấn công vào lực lượng hải quân Hoa kỳ ở Trân châu cảng vào ngày 7/12/1941, mà không tuyên chiến.
2) Để kết thúc chiến tranh sớm với Nhật.
3) Để cảnh cáo Liên sô không dám tiến quân thêm để tràn sang các nước Tây Âu.
Thực ra thì cả 3 nguyên do đều đúng, nhưng nguyên do thứ 3 quan trọng
nhất vì nó nằm trong kế hoạch dài hạn, nói lên sự đối đầu Liên sô - Mỹ
trong gần nửa thế kỷ. Còn hai nguyên do đầu, thì một thuộc về quá khứ,
một thuộc về ngắn hạn, vì trong chính phủ Nhật hoàng lúc đó đã có phe
đánh tiếng xin đầu hàng.
Có người ngạc nhiên rằng mặc dầu Paul Nitzé không phải là người Á châu,
nhưng Chỉ thị 56 của ông phản ảnh đúng tư tưởng của Tôn Tử, một nhà
chiến lược quân sự thời Xuân thu Chiến quốc bên Tàu (722 – 256, trước
Tây Lịch), theo đó: “ Phàm giữa các chiến quốc, trong chiến tranh:
Thượng sách là công tâm, trung sách là công lương, hạ sách mới tới công
thành.”
Theo Chỉ thị số 56 của Paul Nitzé, thì “ Phải kiên nhẫn chờ đợi. Cố làm
thế nào để Liên sô không dùng những nước Tây Âu để bắt chẹt Hoa kỳ. Phải
hành xử khéo léo để đưa Liên sô trở lại con đường tôn trọng tự do dân
chủ và hội nhập vào cộng đồng thế giới. Làm thế nào để ngăn chặn cộng
sản tràn xuống vùng Đông Nam Á.”
Những câu trên nói rõ sự lưu tâm, quan trọng của công tâm và công lương.(1)
Trở về vấn đề Ukraine:
Hiện nay, Poutine cho quân tràn sang vùng Crimée và sát nhập vùng này
vào Nga, Hoa kỳ cũng chỉ nói đến việc dùng áp lực kinh tế, làm nhiều
người nghĩ đến chiến tranh Lạnh lại tái diễn là như vậy.
Tuy nhiên có rất nhiều điểm khác biệt giữa thời nay và thời sau Đệ Nhị Thế Chiến.
Ukranine là một quốc gia có diện tích gần gấp 2 lần Việt Nam, là 604 000
Km2 ; dân số bằng nửa, là 45,6 triệu người ; sản lượng hàng năm tính
theo đầu người là gấp 2, với 7 420,7 $, trong khi Việt nam là 3625,2$ ;
cũng có một lịch sử kéo dài cả ngàn năm và cũng nhiều lần bị các đế quốc
đô hộ và xâu xé.
Vào thế kỷ thứ 13, Ukraine bị đô hộ bởi đế quốc Mông cổ, sau khi đế quốc
này sụp đổ, thì bị đô hộ bởi đế quốc Nga, rồi đế quốc cộng sản Liên sô,
cho tới ngày đế quốc Liên sô sụp đổ thì Ukraine được độc lập. Đấy là
chưa nói vào thời gian Đệ Nhất thế Chiến, Ukraine bị đô hộ bởi đế quốc
Áo Hung, trong thời gian Đệ Nhị Thế Chiến, dân Ukhraine nổi lên chống
Liên sô. Hành động này họ phải trả một giá rất đắt, đó là sau thế chiến,
Staline đã cho quân lính tràn sang đàn áp dân Ukraine, đưa đến hậu quả
cả triệu người chết.
Tình hình gần đây tại Ukraine:
Như chúng ta đã theo dõi, từ 3 tháng nay, thủ đô nước Ukraine là nơi mà
các cuộc biểu tình chống chính quyền độc tài thân Nga, của ông Viktor
Ianoukovictch, khiến cho quốc hội xứ này truất phế ông và đồng thời chỉ
định người thay thế và một chính quyền lâm thời.
Sở dĩ có những cuộc biểu tình trên là vì ông này đang thương thuyết một
hiệp ước hội nhập vào khối Âu châu, rồi bỗng từ bỏ, chấp nhận lời đề
nghị của tổng thống Nga, ông Poutine, theo đó Nga sẽ giúp Ukraine 15 tỷ $
và giảm 1/3 giá dầu và khí đốt cho Ukraine.
Đó là sự tranh chấp giữa phe thân Nga và thân Âu châu.
Lỗi của khối Âu châu, là từ sau khi Ukraine giành được độc lập, năm
1991, nhất là từ cuộc hủng hoảng kinh tế năm 2008, tới nay, kinh tế
Ukraine rất tồi tệ. Ukraine hiện mắc nợ tới 35 tỷ $. Thế giới và khối Âu
châu chỉ nhắc tới và chú trọng đến tình trạng khó khăn của Hy lạp, Tây
ban nha và Bồ đào nha, gần như quên lãng Ukraine.
Về phía Hoa kỳ cũng vậy, lại đi một chính sách ngoại giao nước đôi với
cả Ukraine và khối Âu châu. Hoa kỳ muốn rằng Ukraine theo Hoa Kỳ vào
khối OTAN, chứ không muốn nước này theo Nga hay theo khối Âu châu. Đã từ
lâu, Hoa kỳ không muốn khối Âu châu yếu, nhưng cũng không muốn khối này
đủ mạnh để có thể tranh quyền độc tôn của Hoa kỳ.
Theo một nhà nghiên cứu về địa lý chiến lược chính trị, ông Brezenski,
cựu cố vấn an ninh vào thời tổng thống Carter, trong quyển Bàn cờ Chiến
lược thế giới, ông luôn luôn nhắc nhở hiểm họa sự trổi dậy của đế quốc
cộng sản Nga, coi Ukraine có một vị trí địa lý chiến lược quan trọng cho
cuộc tranh hùng tại Âu châu trong tương lai.
Phải chăng lời tiên đoán của ông cựu cố vấn đang xảy ra? – Có một phần,
nhưng ngày hôm nay, như trên đã nói, nước Nga chỉ còn là một cường quốc
bậc trung, để đi đến siêu cường, tranh hùng, tranh bá với thế giới, còn
rất nhiều yếu tố khác, và con đường còn dài.
Tại sao Poutine lại phản ứng mạnh và bà Hilary Clinton lại ví Poutin với Hitler:
Trở lại đôi chút tình hình thế giới trước và sau Đệ Nhị Thế Chiến:
Hitler lên nắm chính quyền ở Đức năm 1933, sau cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới năm 1929 – 1930, coi thường tất cả những hiệp ước quốc tế, tái
võ trang Đức. Trước khi xẩy ra Đệ nhị Thế chiến, Đức đã xua quân chiếm
đóng nước Áo và vào tháng 9/1938, cũng viện lý do là để bảo vệ hơn 3
triệu người Đức sống ở Tiệp Khắc, đã giàn quân tạo áp lực sát biên giới
nước này. Phản ứng thế giới lúc đó nhất là các đại cường quốc Anh, Pháp,
Hoa kỳ thì như thế nào?
Hoa kỳ lúc đầu luôn giữ vai trò trung lập, tổng thống Hoa Kỳ Franklin
Rosevelt, cho tới năm 1939, trong cuộc vận động tranh cử, vẫn hứa với
dân là không tham chiến. Mãi tới cuối năm 1941, khi Nhật tấn công Trân
châu cảng, mà ngày hôm nay nhiều sử gia, nhiều nhà bình luận cho rằng
đây là một hành động dụ Nhật mắc bẫy, để có lý do tham chiến của chính
quyền Hoa kỳ lúc bấy giờ.
Anh, Pháp vì mới bị ảnh hưởng nặng nề trận Thế chiến thứ Nhất, kinh tế
bị kiệt quệ, cố nhịn nhục chấp nhận hành động của Hitler, qua cuộc họp
thượng đỉnh Munich ngày 29/9/1938, đã ép Tiệp Khắc giao cho Đức toàn
vùng Sudeten, nơi có hơn 3 triệu người gốc Đức cư ngụ. Về sau này người
ta thường nói đến “ Tinh thần Munich “, tinh thần chủ hòa quá mức, đi
đến tinh thần chủ bại là vậy, như câu nói của Churchill: “ Chúng ta cố
chịu nhục để có hòa bình. Nhưng kết quả chúng ta được những gì? không
những vẫn bị nhục mà chúng ta còn có chiến tranh.”
Hành động gửi quân xâm lăng nước ngoài giữa Hitler và Poutine ngày hôm
nay về hình thức thì giống nhau, nhưng về nội dung thì hơi khác: Hitler
ngang nhiên gửi quân đội, dưới đất thì lục quân, xe tăng, cán hàng rào
ngăn cản giữa 2 nước, trên không thì máy bay ngang nhiên xâm phạm không
phận của nước Áo. Ngày hôm nay Poutine kín đáo hơn, gửi quân qua vùng
Crimée, thuộc Ukraine, qua những hiệp ước được quốc tế công nhận trong
đó có cả Nga.
Chính vì vậy mà có người cho rằng sẽ có một cuộc thế chiến mới. Họ không
phải là không có lý, vì nhìn vào tình hình thế giới hiện nay, nhất là
tại Âu châu, cũng giống tình hình Âu châu trước Đệ Nhị thế chiến: cũng
có cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vào năm 2 008, mà Âu châu hiện nay
gượng dậy rất khó khăn, cũng có những phong trào quốc gia cực đoan, quá
khích nổi dậy ở phần lớn các nước Âu châu. Tuy nhiên đấy mới chỉ là
những nguyên nhân tất yếu, chưa phải là nguyên nhân đủ, để đi đến kết
luận. Người và quốc gia có thể gây ra thế chiến là Poutine và nước Nga.
Nhưng nếu so sánh giữa nước Nga hiện nay và nước Đức trước Thế Chiến,
thì có khác, nước Đức thời Hitler không thua hai nước Anh và Pháp bất cứ
trên phương diện nào. Ngày hôm nay nước Nga chỉ còn là một cường quốc
bực trung, không còn là siêu cường như thời Liên sô.
Trở về đường lối chiến lược ngoại giao của Hoa Kỳ về Ukraine:
Tại sao có người lại ví chiến lược này giống như thời Chiến tranh Lạnh,
chủ yếu nhằm công tâm và công lương hơn công thành. Đây là chiến lược mà
Hoa kỳ đã dùng để đánh sụp đế quốc cộng sản Liên sô trước đây. Ngày hôm
nay mộng của Poutine, như nhiều người đều rõ, là muốn gầy dựng lại đế
quốc Liên sô trước đây, hay xa hơn nữa là đế quốc Nga hoàng trước thời
cộng sản.
Cách cai trị của Poutine là cách cai trị độc tài, tham quyền cố vị, đã 2
nhiệm kỳ làm tổng thống, sau đó lùi về làm thủ tướng, rồi lại ra ứng cử
lại lần thứ 3. Cách cai trị này dựa trên công an, mật vụ, đàn áp đối
lập, và dựa trên một số những nhà tỷ phú, thân chính quyền, tham nhũng,
hối lộ, những ai không thân và chống lại thì tìm cách làm khó dễ hay bỏ
tù. Cách cai trị của cựu tổng thống Ukranie, ông Ianoukovicht, cũng vậy,
sao y bản chính của Poutine. Chỉ cần nêu một thí dụ điển hình là con
trai ông này chỉ có mấy năm mà đã trở thành tỷ phú, trong khi đó thì đời
sống người dân bị khủng hoảng kinh tế càng ngày càng trở nên khó khăn.
Mộng của Poutine có khả thế thành công hay không?
Rất là mỏng manh, xin nói rõ ở một dịp khác, vì ngày hôm nay Nga không
còn là một siêu cường, mà chỉ là một cường quốc bực trung. Tổng sản
lượng hàng năm của Nga là 2014, 8 tỷ $, tất nhiên thua Hoa Kỳ, Trung
cộng, Nhật và thua luôn cả Đức, là 3399,6 tỷ, ngay cả thua Pháp và Anh
là 2 612,9 và 2 435,2 tỷ. Nga không sản xuất được mặt hàng tiêu dùng gì
trên thị trường quốc tế ngoài việc xuất cảng dầu và khí đốt, chiếm tới
gần 1/2 tổng sản lượng quốc gia, mà theo nhiều nguồn nghiên cứu đáng tin
cậy, thì từ nay đến năm 2017, giá dầu khí thường dùng sẽ sụt xuống một
nửa, nếu không là 1/3. Vào những thập niên 70 - 80 - 90, người ta cần
đến những nước dầu hỏa, ngày hôm nay ngược, những nước dầu hỏa lại cần
đến những nước tiêu thụ, để có nguồn thâu lợi. Nước xuất cảng dầu hỏa
đứng đầu trên thế giới là Arabye Sahoudite, đã giảm mức độ sản xuất để
giữ giá trên thị trường. Một thí dụ điển hình là nước Đức, nhập cảng
phần lớn dầu hỏa và khí đốt của Nga, nhưng trên thực tế ngày hôm nay,
Nga cần Đức mua dầu hỏa của mình để có tài chánh, hơn là Đức, vì nước
này có lượng dầu dự trữ 6 tháng và trong thời gian này có thể mua dầu và
khí đốt từ các nước khác trên thị trường quốc tế.
Chiến lược ngoại giao công tâm, công lương của Hoa kỳ, nhiều người cho
rằng nó đã lỗi thời ngày hôm nay khi áp dụng với Nga, vì ảnh hưởng kinh
tế và thương mại của Hoa kỳ với nước này không lớn, thua cả khối Âu
châu.
Thật vậy, chiến lược công tâm, công lương của Hoa kỳ đối với Nga, thì
công thành tức dùng giải pháp quân sự gần như không có, nhất là với
chính quyền Obama hiện nay. Công lương thì ảnh hưởng kinh tế thương mại
giữa Nga và Hoa kỳ không nhiều. Chỉ còn lại công tâm là dùng chiến tranh
tâm lý và vận động ngoại giao.
Trong 3 lãnh vực, hai lãnh vực sau, Hoa kỳ thiếu những con bài tẩy về
chiến lược ngoại giao hơn khối Âu châu. Và phải chăng từ đó Hoa kỳ phải
lên tiếng mạnh. Mới tuần vừa qua, trong khi hội nghị thượng đỉnh khối Âu
châu đang họp ở Bruxelles, chưa đi đến quyết định, thì trong một bài
diễn văn, ông Obama đã đưa ra những biện pháp trừng phạt Nga và giúp đỡ
chính quyền lâm thời Ukraine. Nhưng chúng ta chỉ cần nhìn những lời hứa
giúp đỡ kinh tế và tài chánh nước này thì chúng ta rõ: Hoa kỳ 1 tỷ, Âu
châu 11 tỷ, Ngân hàng và Quỹ tiền tệ thế giới 3 tỷ, đúng như con số hứa
của Poutine giúp chính quyền cũ 15 tỷ. Nhưng với 11 tỷ của khối Âu châu,
người ta đều rõ nước Đức đóng vai trò quan trọng nhất, vì kinh tế Đức
lớn nhất và vững chắc nhất. Bà thủ tướng Đức Merkel mặc dầu rất ít tuyên
bố về tình hình Ukraine, nhưng Đức hiện nay có một ảnh hưởng rất lớn
không những với Nga mà cả hai phe vừa thân Nga vừa thân khối Âu châu của
Ukraine.
Hiện nay chính quyền Hoa Kỳ có vẻ năng nổ nhất trong việc giúp dân tộc
Ukranie và chính quyền lâm thời. Tuy nhiên có nguời cho rằng Hoa kỳ chỉ
có đồng minh nhất thời chứ không có bạn lâu đời, viện dẫn lời tuyên bố
của ông cựu Ngoại trưởng Hoa kỳ, Henry Kissinger.
Bảo rằng đây là trò chơi độc nhất vô nhị của Hoa kỳ thì cũng không đúng.
Đây là trò chơi của tất cả những đế quốc, cường quốc từ xưa tới giờ.
Nói như vậy cũng không thể nói là các dân tộc nhược tiểu tự đứng một
mình. Không nói quá là ảnh hưởng của những cường quốc là tất cả, nhưng
nó cũng rất mạnh và tiềm tàng, nó ảnh hưởng có thể nói hầu như thường
nhật đối với chúng ta, như việc giá cả nhiên liệu, thực phẩm, dầu khí,
dù chúng ta không muốn, nhưng nó tăng hay giảm, do quyết định của những
nước lớn, chưa nói đến lãnh vực chính trị đều ảnh hưởng trực tiếp đến
chúng ta.
Từ đó cho chúng ta bài học là phải biết dựa vào lúc nào, dựa vào ai và
như thế nào để vẫn giữ được độc lập và chủ quyền. Nên hành xử trên
trường bang giao quốc tế là chỉ nên có đồng minh, chứ không nên có bạn,
và làm thế nào vẫn giữ được sĩ diện quốc gia dân tộc, chứ không như kiểu
một số lãnh đạo Việt nam đã cúi gập mình làm hai, hay đi ôm giày những
cường quốc hoặc những nhà tư bản quốc tế. Chỉ làm như vậy, mới không bị
mất quốc thể, mới có thể ứng phó kịp thời và nếu trường hợp bị các cường
quốc đồng minh bỏ rơi, cũng không mang hận.
Trông người lại ngắm tới ta, nước Ukraine có một lịch sử tương đối giống
Việt nam: nằm cạnh những đế quốc, cường quốc, thường là nạn nhân của
những nước này. Các cha ông ta thời xưa, từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần,
Nguyễn, mỗi lần có tranh chấp, đánh nhau với Tàu, nhưng sau đó đều gửi
đặc sứ sang cầu hòa, vẫn giữ được chủ quyền quốc gia, thể thống dân tộc,
nhưng không mất lòng anh khổng lồ láng giềng. Ngày xưa vấn đề bang giao
quốc tế còn hạn hẹp, chỉ ở mức độ vùng, Việt Nam chỉ bang giang với Tàu
và một vài nước chung quanh. Ngày hôm nay bang giao quốc tế ở mức độ
rộng lớn, không phải chỉ có một anh khổng lồ, mà có nhiều anh khổng lồ,
thêm vào đó có nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Quốc, Khối Âu châu
v.v.., đường lối ngoại giao hay nhất của các nước nhược tiểu là trung
lập, chơi với nhiều anh khổng lồ để dùng anh này quân bằng với anh kia,
đồng thời tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế, để nếu có những tranh chấp
thì nhờ những tổ chức này làm trọng tài, đứng ra can thiệp. Đừng nghĩ
việc này khó làm, vì nhiều quốc gia trên thế giới đã từng đi theo đường
lối ngoại giao này, và cũng đã thành công.
Bài học mất nước của Tiệp Khắc không hoàn toàn là Tiệp nhỏ và yếu hơn
Đức, mà lý do chính là dân Tiệp chia rẽ, một số lãnh đạo hèn hạ qụy lụy
và khúm núm trước Hitler; cũng như Ukraine để mất Crimée là do có một
chính phủ tham nhũng, một nhà nước lệ thuộc và khiếp nhược trước Nga sô.
Đất nước chúng ta hiện tại cũng đang nằm trong tình trạng hiểm nguy
không thua gì Tiệp trước Đệ nhị Thế chiến và Ukraine hôm nay. Chưa thời
nào trong giòng lịch sử dân Việt lại bị phân hóa, kìm kẹp, ươn hèn như
hiện nay dưới sự cai trị của đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng không cội
nguồn Dân tộc, ngay từ đầu đã cam tâm làm con chốt cho Nga Tàu, nay thì
chỉ là một bọn thái thú mặc tình cho Trung cộng sai khiến.
Con đường duy nhất cho chúng ta là phải nhanh chóng giành lại quyền cho
người dân. Vì chỉ khi nào người dân làm chủ đất nước, khi đó chúng ta
mới có sức mạnh và chính nghĩa để tự vệ, tự chủ và đòi lại độc lập, đồng
thời liên minh và đóng góp với những quốc gia yêu chuộng Hòa bình và
Dân chủ để chống lại tham vọng bá quyền của anh láng giềng khổng lồ
phương Bắc.
Paris, ngày 03/03/2014
0 comments:
Post a Comment